Bạn sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Hải Dương, nhưng bạn có biết gì về mảnh đất này. Nơi bạn sống có lịch sử như thế nào, biết về lịch sử của nơi mình sinh ra các bạn sẽ có những hiểu biết về quê hương mình. Người ta vẫn có câu : Người khôn ngoan là người biết về nơi mình sống.
Có rất nhiều người mơ hồ về Thành Đông, Hải Dương và về các địa danh của Hải Dương. Để giúp các thành viên của "http://tophaiduong.com" thêm hiểu về chữ "Yêu Hải Dương", tôi sẽ giới thiệu cho các bạn về lịch sử Hải Dương qua các phần. Do thời gian có hạn nên tôi sẽ trình bày từng phần một. Hy vọng các bạn có thêm những kiến thức cần thiết để có thể tự hào về mảnh đất Hải Dương.
< Xin ghi rõ nguồn khi các bạn copy bài viết này - http://tophaiduong.com>
PHẦN I: THỊ XÃ HẢI DƯƠNG TRƯỚC NGÀY THỰC DÂN PHÁP CHIẾM ĐÓNG ( TRƯỚC NGÀY 19/8/1883)
- Từ xa xưa, thị xã Hải Dương là một vùng đầm lầy, lau sậy um tùm , với những doi đất cao như Bình Lao, Ngọc Uyên.. trên đó đã xuất hiện con người. Các dòng họ có sớm như là họ Chử, Đinh, Trương, Trần, Phạm, Nguyễn.. Người dân sống chủ yếu bằng nghê chài lưới, đánh bắt cá và lúa nước.
Miền Hải Dương còn là miền biển cả. Biển càng ngày càng lùi xa về phía Đông dần dần hình thành các miền đất mới. Thị xã Hải Dương hiện nay do phù sa của sông Thái Bình và sông Kẻ Sặt bồi đắp thành. Sông Thái Bình chảy tới Hải Dương gấp khúc và chia làm 2 nhánh, nhánh phía bắc hẹp và sâu, nhánh phía nam rộng và nông. Phía Nam Sách lở, phía Ngọc Châu bồi. Bãi bồi giữa sông lớn dần nay là đất Ngọc Châu ( Ngọc Uyên và Nhị Châu).
- Dòng họ Trần cũng xuất hiện từ thế kit thứ 6. Nay còn đền thờ và thần tích 3 tướng họ Trần ở Đồng Niên ( Việt Hòa).
- Dòng họ Đinh, Phạm, Nguyễn, có từ thời Đinh Tiên Hoàng ( 971) có Phạm Hồng Át, Đinh Điền, Nguyễn Bặc xuất hiện ở Ngọc Uyên. Sau này thời Hậu Lê. họ Đinh lại phát ở đất Hàn Giang.
Dòng họ Chử hiện nay còn gần 60 hộ sinh sống ở đất Bảo Sài, Bình Lâu
Ở Bảo Sài hiện nay còn có ngôi đền tên là : Thanh Hư Động, thờ Tiên Dung công chúa. Theo truyền thuyết là người đã dám cãi vua cha để kết duyên cùng Chử Đồng Tử.
- Hải Dương từ thời xa xưa lập nước , Hùng Vương thứ 6, vùng đất này thuộc bộ Dương Tuyền, một trong những bộ lạc giàu nhất trong tổng số 15 bộ của nước Văn Lang. Thủ phủ của bộ Dương Tuyền đặt tại thành Dền thuộc thôn Ngọc Lặc, Tứ Kỳ, cách thị xã Hải Dương 6 km về phía Nam. Đây là vùng ngã ba sông nước mênh mông. Dân sống nghề chài lưới và cấy lúa nước. Bộ Dương Tuyền ngày xưa nổi tiếng với nghề đúc trống đồng.
- Thời Bắc thuộc, Bộ Dương tuyền đổi là huyện An Định, từ đó có tên là vùng đất như : An Châu, An Điềm. Năm 43, nhằm đè bẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã dân quân qua Hải Dương lên Lạng Bạc bằng đường thủy. Tướng của Hai Bà Trưng là Trương Mỹ đã cho đào hào, đắp lũy , đánh quân Mã Viện ngay tại ngã ba sông Kẻ Sặt và Thái Bình. Để ghi nhớ công ơn của Trương Mỹ, nhân dân đã tôn ông là Thành Hoàng và thờ tại đình Bảo Sài.
- Năm 544 Lý Bôn khởi nghĩa, dựng nước Vạn Xuân, tướng của Lý Bôn là Lý Quốc Bảo đã chặn đánh quân Lương tại đây. Trận đánh diễn ra ác liệt từ Phú Lương tới Văn Thai, Thạch Lỗi ( Cẩm Giàng). Tướng quân Lý Quốc Bảo được nhân dân thờ ở Thạch Lỗi mà sắc phong còn ghi rõ chiến công ở Phú Lương năm xưa.
- Năm 905 Khúc Thừa Dụ cử con trai là Khúc Thừa Hạo hành quân đi Ninh Giang đã đóng quân trên vùng ngã 3 sông Kẻ Sặt và Thái Bình để đánh quân đô hộ nhà Đường.
- Năm 1075 Lý Thường Kiệt cũng đã hành quân qua đây để đánh giặc Nguyên Mông. Ngày nay tại đình Đông Kiều, đình Đông Thị, đình Đông Mỹ đều thờ đức thánh Trần Hưng Đạo.
- Dứơi triều Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 ( 1469) Hải Dương thừa tuyên ra đời. Thừa Tuyên tương tự như trấn, tỉnh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện tên gọi Hải Dương.
Lỵ sở thừa tuyên Hải Dương đặt tại xã Mặc Động, huyện Chí Linh, tục gọi là dinh Lệ, lỵ sở có thành gọi là thành Vạn. Gần thành Vạn có chợ, trên bến dưới thuyền., buôn bán tấp nập.sầm uất đông vui. có đò ngang vượt sông Kinh Thầy. Thành Vạn là điểm cao chiến lược trấn giữ yết hầu đường thủy từ biển đông vào kinh đô Thăng Long.
- Vùng đất thuộc ngã 3 sông Kẻ Sặt và sông Thái Bình là quê hương Đinh Văn Tả, người được nhà Hậu Lê phong chức Hàn Lâm viện Đại học sĩ và phong cấp cho một vùng rộng lớn. Nhân dân địa phương gọi là "Đất của quan Hàn", từ đó hình thành tên gọi là " Đất Hàn", " Tổng Hàn Giang"..
- Đến năm 1900, tổng Hàn Giang vẫn bao gồm các xã Dịch Hòa, Đồng Niên, Hàn Thượng, Kim Chi, Đàm Lộc, Bình Lâu, Phượng Cáo, Thanh Cương, Tân Kim, Kênh Tre, và Hàn Giang.
- Thế kỉ 18, triều đình Lê Trinh sang buổi mạt vận. Vào thời Vĩnh Hựu ( 1739), các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi ra liên tiếp. Nguyễn Cử, Nguyễn Tuyến nổi lên chiếm vùng Nam Sách rồi đem quân chiếm dinh Lệ ( Thành Vạn). Quân Trịnh tan vỡ, các tướng bị bắt sống. Nhà Lê buộc phải bỏ dinh Lệ, chuyển lỵ sở về xã Mao Điền, huyện Cẩm Giàng lấy cớ răng: " Ở đây nếu có biến thì kêu cứu kinh đô cũng nhanh, mà đường dịch trạm cũng tiện." Lỵ sở đóng ở Mao Điền, trên bờ sông Văn Dậu( một đoạn của sông Kẻ Sặt). nên có tên là dinh Dậu. Ở đây cũng xây thành, đắp lũy có bến đò ngang, bến sông sang đất Trường An. Chợ Văn Dậu lớn dần lên, buôn bán sầm uất có nhiều trâu bò và sản phẩm của miền châu thổ, miền trung du qua đường thủy chuyển về. Một văn miếu khá lớn cũng được xây dựng trong đó có ghi danh các sĩ tử đỗ Đại Khoa.
" Trấn sở Hải Dương trên Hồng Lộ
Đồn canh văng vẳng tiếng chuông pha
Kinh vua vô dực, đường gần gặn
Mặt bể quan hà dặm thẳm xa
Bóng nguyệt, xóm Mao trong vắt đứng
Dịp cầu sông Cẩm thẳm mù qua
Cánh đông man mác khi nhàn vắng
Nọ cuộc can qua, dấu chẳng lòa"{alertSuccess}
- Tháng 8 năm Quý Hợi ( 9-1803) vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ 3 để tiếp xứ nhà Thanh ở Thăng Long đã quyết định di trấn Hải Dương về phía đông 15 km, đặt trên ngã 3 sông Kẻ Sặt và sông Thái Bình, tại địa phận các xã Bình Lao, Hàn Giang, Hàn Thượng. Vì thế trấn Hải Dương còn gọi là trấn Hàn.
Vùng ngã 3 sông nước mênh mông có lợi thế như một " quân cảng". Các trận luyện tập thủy chiến quanh vùng thường chọn cửa sông này làm nơi thao diễn. Chiến thuyền có lúc tập trung hàng trăm chiếc, mặt sông san sát thuyền binh như lá tre. Vì thế Hàm Giang tương tự Hàm Long ở Hà Nội, Hàm Tử ở Sơn Nam. Hàm Luông ở Nam Bộ. Từ đó Trấn Hàm còn được gọi là Trấn Hàn.
- Năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831) có việc phân định lại các khu vực hành chính trong cả nước. Trấn Hải Dương đổi thành tỉnh Hải Dương. Vì tỉnh Hải Dương ở về phía đông kinh thành Thăng Long nên còn gọi là tỉnh Đông. Thành của tỉnh Đông ( Hải Dương tỉnh thành) còn được gọi là Thành Đông. Hải Dương tỉnh thành, thành Đông cũng là một và là thủ phủ của trấn Hải Dương.